Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả trong hoạt động khoa học và công nghệ

Đề cập một trong những hạn chế của hoạt động khoa học và công nghệ (KH và CN), Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XI) chỉ rõ: "Đầu tư cho KH và CN còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao". Điều đó cho thấy việc đổi mới cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính của hoạt động KH và CN là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành trong thời gian tới.

Theo quy định hiện hành, Nhà nước dành 2% tổng chi ngân sách hằng năm cho KH và CN, bao gồm kinh phí đầu tư phát triển KH và CN và kinh phí sự nghiệp KH và CN.

Bộ KH và CN là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ và Quốc hội về việc sử dụng có hiệu quả khoản ngân sách này, trong đó phần kinh phí đầu tư phát triển KH và CN chiếm từ 42% đến 46%. Song Bộ KH và CN chưa được tham gia vào quá trình phân bổ, thẩm định nội dung, không thể kiểm tra, giám sát hiệu quả đầu tư phát triển KH và CN. Các bộ, ngành, địa phương không có trách nhiệm báo cáo cho Bộ KH và CN, và do đó Bộ KH và CN không thể nắm bắt được tình hình sử dụng nguồn ngân sách này và không làm rõ được trách nhiệm về hiệu quả đầu tư.

Thực tế cho thấy, nhiều năm qua, một số bộ, ngành, địa phương đã sử dụng kinh phí đầu tư phát triển KH và CN không đúng mục đích. Theo số liệu tổng hợp của Ban KH và CN địa phương (Bộ KH và CN), nguồn kinh phí đầu tư phát triển cho KH và CN do Trung ương cân đối cho các địa phương trong ba năm qua chỉ được sử dụng đúng mục đích là 56% (tăng cường tiềm lực cho công tác đo lường, kiểm định, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các đơn vị sự nghiệp của các sở KH và CN đang trên lộ trình chuyển đổi theo Nghị định 115/NĐ-CP, xây dựng các phòng thí nghiệm, thử nghiệm của các tổ chức KH và CN thuộc các sở, ban, ngành, các điểm truy cập thông tin, các trung tâm thông tin...). Còn lại khoảng 46% số kinh phí Trung ương cân đối cho các địa phương không được sử dụng đúng mục đích đầu tư phát triển KH và CN.

Nguyên nhân của tình trạng nói trên là: phần lớn địa phương rất yếu về năng lực xây dựng các dự án đầu tư để tăng cường tiềm lực KH và CN, hoặc các dự án đã xây dựng nhưng không được UBND tỉnh, thành phố phê duyệt. Một số địa phương do điều kiện kinh tế còn khó khăn cho nên đã bố trí nguồn kinh phí này để sử dụng vào các nhiệm vụ khác. Một số địa phương còn "trà trộn" nguồn kinh phí dành cho đầu tư phát triển KH và CN với nguồn kinh phí xây dựng cơ bản cho nên các đơn vị thanh tra, kiểm tra không thể bóc tách được đâu là kinh phí sử dụng đúng mục đích, đâu là nguồn kinh phí sử dụng không đúng mục đích. Sở KH và CN một số tỉnh không được quyền trong việc xác định nguồn kinh phí đầu tư phát triển của ngành để tham mưu cho lãnh đạo tỉnh mà hoàn toàn phụ thuộc vào sở kế hoạch - đầu tư hay sở tài chính.

Theo PGS, TS Đoàn Năng, thực trạng nêu trên của cơ chế quản lý kinh phí Nhà nước dành cho đầu tư phát triển KH và CN là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đầu tư phát triển KH và CN dàn trải, trùng lặp, cào bằng, thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa khắc phục được tình trạng sử dụng sai mục đích và kém hiệu quả kéo dài. Mặt hạn chế khác của ngành KH và CN là chưa có cơ chế hiệu quả khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho KH và CN; chưa quy định rõ việc trích lập, chi cho hoạt động KH và CN tại các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp, kể cả trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp đều gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh do thiếu vốn, quy mô nhỏ, nhất là không tìm được đầu ra cho sản phẩm tiêu thụ trên thị trường cho nên không quan tâm đầu tư cải tiến và đổi mới công nghệ. Cơ chế tài chính trong KH và CN còn bất hợp lý, chậm đổi mới, gây bức xúc cho các nhà khoa học. Nội dung định mức, thủ tục chi và thanh quyết toán nhiệm vụ KH và CN còn chưa phù hợp đặc thù của hoạt động KH và CN.

Nhằm khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả trong hoạt động KH và CN, Nghị quyết T.Ư 6 (khóa XI) đã nêu năm nội dung chính mà Bộ KH và CN, các bộ, ngành có liên quan cần phải thực hiện trong thời gian tới.

Thứ nhất, đổi mới cơ chế xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách đối với hoạt động KH và CN phù hợp với đặc thù của lĩnh vực KH và CN và nhu cầu phát triển quốc gia, ngành, địa phương; bảo đảm đồng bộ, gắn kết giữa định hướng phát triển dài hạn, chương trình phát triển trung hạn với kế hoạch nghiên cứu, ứng dụng KH và CN hằng năm.

Thứ hai, điều chỉnh phân bổ ngân sách nhà nước cho hoạt động KH và CN theo hướng căn cứ vào kết quả, hiệu quả sử dụng kinh phí KH và CN của bộ, ngành, địa phương.

Thứ ba, đẩy mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu thực hiện nhiệm vụ KH và CN và cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm KH và CN cuối cùng theo kết quả đầu ra.

Thứ tư, xây dựng cơ chế đặc thù trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ KH và CN theo hướng giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH và CN. Mở rộng áp dụng cơ chế tài chính của quỹ phát triển KH và CN.

Thứ năm, huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển KH và CN. Nâng tổng đầu tư xã hội cho KH và CN đạt 1,5% GDP vào năm 2015, hơn 2% GDP vào năm 2020 và khoảng 3% GDP vào năm 2030. Tăng đầu tư của Nhà nước cho KH và CN bảo đảm tối thiểu 2% tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm. Có cơ chế sử dụng vốn sự nghiệp kinh tế hỗ trợ đổi mới và chuyển giao công nghệ. Khuyến khích tư nhân thành lập hoặc liên kết với Nhà nước thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ mới, công nghệ cao.

Sáu nhiệm vụ và giải pháp thực hiện Nghị quyết T.Ư 6 (khóa XI) nói chung, nhất là năm nội dung nhằm khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải kém hiệu quả nói riêng chỉ có thể thực hiện thành công khi các cấp ủy đảng và chính quyền xác định việc phát huy, phát triển KH và CN là một nhiệm vụ trọng tâm. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ KH và CN với các mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của từng bộ, từng ngành, từng cấp. Coi kế hoạch ứng dụng và phát triển KH và CN là một nội dung của quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương mình.


Nguồn: www.nhandan.org.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét